THĂM DÒ CHỨC NĂNG HẤP THU

0
760
kém hấp thu

THĂM DÒ CHỨC NĂNG HẤP THU

kém hấp thu

Trước một bệnh nhân có hội chứng kém hấp thu, việc tổng hợp các dữ kiện về bệnh sử, lâm sàng và các quan sát sơ bộ ban đầu sẽ giúp khu trú các thăm dò chức năng cũng như xét nghiệm hình ảnh quá nhiều và tốn kém. Sau đây là một số nghiệm pháp thăm dò chức năng hấp thu của ruột non:

1. Nghiệm pháp D-xylose niệu

D-xylose là một loại pentose được hấp thu chủ yếu ở đoạn ruột non đầu tiên.
Do đó nghiệm pháp D-xylose niệu cho phép đánh giá chức năng hấp thu của niêm mạc ruột non đoạn đầu.
Phương pháp: Thực hiện vào buổi sáng, bụng đói. Cho bệnh nhân uống 25g D-xylose trong 250ml nước, đo xylose trong máu sau 2 giờ và xylose niệu sau 5 giờ.
Đánh giá: Bình thường D-xylose máu trên 250mg/l và D-xylose niệu sau 5 giờ trên 4,5g. Trị số D-xylose niệu dưới 4,5g gợi ý bệnh lỷ của nicm mạc tá tràng hoặc hỗng tràng. Nghiệm pháp này cũng bất thường ở một số bệnh nhân bị hội chứng quai mù.
Dương tính giả: Ở những bệnh nhân bị tràn dịch màng phổi hoặc tràn dịch màng bụng số lượng nhiều.

2. Nghiệm pháp Schilling

Nghiệm pháp này cho phép xác định nguyên nhân của sự kém hấp thu cobalamine. Bởi vì sự hấp thu cobalamine đòi hỏi nhiều bước, bao gồm cả dạ dày, tụy và hồi tràng, cho nên nghiệm pháp Schilling có thể được sử dụng để đánh giá tính nguyên vẹn của các cơ quan này.
Sự kém hấp thu cobalamine có thể gặp trong các trường hợp sau:
– Thiếu máu ác tính: Các tế bào thành của niêm mạc dạ dày bị teo do cơ chế miễn dịch, làm mất sự tiết cả acid lẫn yếu tổ nội.
– Viêm tụy mạn: Do thiếu protease của tụy nên không thể cắt đứt phức hợp cobalamine-R binder.
– Không có acid chlorhydric hoặc một yếu tố tiết ra cùng với acid có vai trò tách cobalamine ra khỏi dạng phức họp.
– Hội chứng tăng sinh vi khuẩn, thường thứ phát sau ứ trệ ở ruột non, vi khuẩn tăng sử dụng vitamin B12 gây ra sự thiếu B12.
– Rối loạn chức năng hồi tràng do viêm nhiễm hoặc cắt đoạn ruột.
Phương pháp: Được thực hiện bằng cách cho uống cobalamin và lấy nước tiểu trong 24 giờ. cần tiêm bắp 1mg cobalamin 1 giờ sau khi uống cobalamine gắn đồng vị phóng xạ để bảo đảm sự bão hòa của các vị trí gắn cobalamine.
Đánh giá: Nghiệm pháp Schilling được xem là bất thường khi có dưới 10% được thải trong nước tiểu. Một khi nghiệm pháp này bất thường, cobalamine gắn đồng vị phóng xạ lại được cho uống một lần nữa kèm theo yếu tố nội, với enzyme tụy hoặc với một liệu trình kháng sinh 5 ngày (thường là tetracycline).

3. Độ thanh thải của ruột non với alphal-antitrypsin

– Để khảo sát bệnh viêm ruột non xuất tiết.
– Protein này bị hủy bởi pH acid nhưng không bị thủy phân bởi các enzyme ruột.
– Lượng thải ra trong phân trong 3 ngày là lượng tiết ra trong ruột non.
– Hệ số thanh lọc bình thường dưới 15ml/24giờ.

4. Nghiệm pháp lactose

– Để đánh giá sự thiếu enzyme lactase. Thực hiện bằng cách ăn 50g lactose và định lượng glucose máu mỗi 30 phút trong 2 giờ. Bình thường đường máu tăng ít nhất 0,2 g/1mmol.

5. Nghiệm pháp thở ra hydro sau khi cho ăn lactose

– Kết quả nhạy hơn nghiệm pháp lactose. Lactose không được hấp thu, sẽ bị hủy bởi vi khuẩn ruột và làm gia tăng lượng hydro thải ra trong hơi thở.

6. Xét nghiệm thành phần phân

Các xét nghiệm định tính bao gồm:
– Tìm hạt tinh bột qua phản ứng Lugol cho màu xanh;
– Tìm sợi thịt bằng soi kính hiển vi;
– Phát hiện mờ bằng phản ứng Sudan 3.
Xét nghiệm định lượng để đánh giá chính xác khả năng hấp thu mỡ: Người ta cho bệnh nhân ăn trong 3 ngày liên tiếp, mỗi ngày 50g lipid rồi định lượng mờ trong phân, bình thường dưới 5g/24 giờ.

7. Một số xét nghiệm sinh học gián tiếp

Đó là những xét nghiệm sinh học không hoàn toàn đặc hiệu cho hội chứng kém hấp thu mà chỉ phản ánh tình trạng thiếu các chất dinh dưỡng do hậu quả của tình trạng kém hấp thu kéo dài:
(1) Thiếu sắt, acid folic và B|2;
(2) Thiếu vitamin D và can-xi;
(3) Thiếu protein;
(4) Thiếu vitamin K.

8. Các xét nghiệm chức năng ngoại tiết của tụy

Các xét nghiệm chức năng của tụy có thể được phân chia ra như sau:
– Kích thích tụy trực tiếp bằng cách truyền tĩnh mạch Secretin hoặc secretin và cholecystokinin (CCK), sau đó lấy dịch tá tràng để xét nghiệm.
– Kích thích tụy gián tiếp bằng các chất dinh dường hoặc acid amin, acid béo và các peptide tổng hợp, sau đó xét nghiệm các enzyme tiêu mờ, tiêu protide hoặc tiêu đường.
– Nghiên cửu các sản phẩm tiêu hóa trong lòng ruột như các sợi thịt không tiêu, phân mờ hoặc nitơ trong phân.
– Định lượng các enzyme tụy trong phân như elastase.

8.1. Test secretin

Được sử dụng để thăm dò bệnh lý tụy lan tỏa, dựa trên nguyên tắc sinh lý là đáp ứng tiết của tụy liên quan trực tiếp với khối lượng chức năng của tổ chức tụy. Trong test chuẩn, secretin được tiêm tĩnh mạch với liều 1 đơn vị lâm sàng/kg (icu/kg), hoặc tiêm tấn công hoặc truyền tĩnh mạch liên tục. Kết quả tùy thuộc vào chế phẩm secretin được dùng, liều lượng, cách dùng và cách lấy dịch tá tràng. Các giá trị bình thường đối với test secretin chuẩn là:
(1) Lưu lượng thể tích > 2,0ml/kg/h;
(2) Lồng độ HCO3 > 80mEq/l;
(3) Lưu lượng HCO3’ >10 mEq/l/h.

8.2. Test phối hợp secretit – CCK

Cho phép định lượng phối hợp amylase, lipase, trypsin và Chymotrypsin. Mặc dù có những ranh giới trùng nhau về nồng độ giữa những người bình thường và bệnh nhân viêm tụy, nhưng nói chung một lưu lượng enzyme tụy thấp rõ rệt gợi ý thương tổn tụy lan toả và sự phá hủy các tế bào nang tuyến. Trong suy tụy ngoại tiết rõ, có một sự giảm toàn bộ cả nồng độ HCO3’ và lưu lượng các enzyme. Đôi khi cũng có sự không tương đồng giữa test secretin và các xét nghiệm chức năng hấp thu. Chẳng hạn bệnh nhân viêm tụy mạn có thể có nồng độ HCCV trong test secretin rất thấp nhưng nồng độ mỡ trong phân bình thường.
Như vậy là test secretin phản ánh khả năng tiết của biểu mô các ống nhỏ trong khi định lượng mỡ trong phân lại phản ánh gián tiếp hoạt tính của các enzyme tiêu mỡ trong lòng ruột. Đi cầu phân mỡ sẽ không có cho đến khi nồng độ lipase trong lòng ruột giảm rõ rệt, điều này chứng tỏ rằng chỉ cần một lượng nhỏ enzyme cũng đủ cho hoạt tính tiêu hóa trong lòng ruột.
Một test secretin bất thường chi chứng tỏ một thương tồn tuy mạn tính nhưng không giúp phân biệt được viêm tụy mạn với ung thư biểu mô tụy.

8.3. Test Bentibromide

Có mục đích đánh giá gián tiếp chức năng tụy và phản ánh hoạt tính của Chymotrypsin trong lòng ruột. Test này có một độ đặc hiệu rất cao nhưng độ nhạy thì không tốt lắm và hiện nay không còn được sử dụng trong lâm sàng ở Mỹ.

8.4. Nồng độ Trypsinogen huyết thanh

Xác định bằng phương pháp miễn dịch phóng xạ. Đây là một test đem giản nhưng có thể giúp đánh giá các thương tổn tụy ngoại tiết. Giá trị bình thường từ 28 – 58mg/ml, và bất kỳ giá trị nào dưới 20ng/ml đều có triệu chứng đi cầu phân mỡ.

8.5. Đo các sản phẩm tiêu hóa trong lòng ruột

Chẳng hạn đo các sợi thịt không tiêu, mỡ trong phân, nitơ trong phân.

copy ghi nguồn : daihocduochanoi.com

Link bài viết tại : Thăm dò chức năng hấp thu