TƯƠNG TÁC THUỐC
Tương tác ảnh hưởng đến hấp thu thuốc
Chúng thể hiện ở sự thay đổi tốc độ hấp thu thuốc ở đường tiêu hoá, và ở lượng thuốc được hấp thu. Như vậy đã có sự thay đổi một thông số dược động học, tức là sinh khả dụng của sản phẩm. Người ta thường thấy hiện tượng này ở những thuốc dùng theo đường uống. Ta có thể tránh hiện tượng này bằng cách tuân thủ giữ một khoảng thời gian giữa các lần dùng thuốc. Các tương tác này thường gây ra sự giảm tác dụng
của thuốc.
Tương tác thuốc ảnh hưởng đến hấp thu thuốc qua đường tiêu hoá có thể có nhiều
cơ chế:
Sự tạo thành những phức hợp khó hấp thu.
Ví dụ các tetracyclin tạo ra với canxi, nhôm, magnesi những phức chất không hấp thu được qua thành ruột – Như vậy cần tránh dùng đồng thời tetracyclin với các thuốc băng niêm mạc đường tiêu hoá có thành phần chủ yếu là nhôm, magnesi, canxi.
Ví dụ một chất nhựa như cholestyramin có mục đích là giữ cholesterol, lại có thể giữ nhiều thứ thuốc nếu dùng đồng thời (các chất chống đông dùng đường uống, các thuốc họ digital, các nội tiết tố tuyến giáp). Những chế phẩm có chứa muối sắt cũng gây tương tác bằng cách tạo ra những phức hợp với các chất kháng acid chứa các muối nhôm, canxi, và magnesi.
Hoà tan trong những chất lỏng không hấp thu được.
Ví dụ dầu vasơlin dùng lâu dài có thể làm giảm rất nhiều sự hấp thu các vitamin tan trong dầu (A, D, E, K) – Cần cảnh giác ở những bệnh nhân dùng thuốc kháng vitamin K.
Sự thay đổi pH của dạ dày, ruột.
Ví dụ các thuốc kháng H2 hay kháng acid có chứa muối nhôm, magnesi hay canxi có thể làm chậm lại hay làm giảm sự hấp thu một số hoạt chất như furosemid, indometacin, digoxin, isoniazid…
Do hiện tượng hấp phụ.
Ví dụ các chất Kaolin, nhôm pentasilicat, pectin, cyclamat có tác dụng hấp phụ một số thuốc (lincomycin, paracetamol, aspirin, acid nalidixic, nitrofurantoin, các thuốc chống đông đường uống…)
Sự thay đổi thời gian tiếp xúc giữa thuốc với niêm mạc do tác dụng trên nhu động của ruột.
Các chất kháng cholinergic, các chất kháng histamin có tính kháng cholinergic, các chất phong bế hạch, các chất từ thuốc phiện, acid acetylsalicylic làm chậm sự tháo sạch các chất qua dạ dày.
Sự thay đổi lưu lượng máu trong niêm mạc ruột.
Ví dụ các chất gây co mạch, dãn mạch.
Tác dụng độc trên niêm mạc ruột, thậm chí phá huỷ các vi khuẩn ruột.
Hội chứng hấp thu kém, hoặc có thể cản trở các vi khuẩn sinh ra một chất cần thiết. Ví dụ như khi dùng tetracyclin trong một thời gian sẽ phá huỷ vi khuẩn ở ruột, ngăn cản sự tổng hợp vitamin K do vi khuẩn hoại sinh ở ruột (thay đổi đáp ứng của các thuốc kháng vitamin K).
Tốc độ và lượng thuốc hấp thu qua đường tiêu hoá tăng.
Ví dụ các thuốc kháng acid và penicilin G – Alcol ethylic và theophylin. Chất kiềm hoá và thuốc có tính base (cloroquin, imipramin, quinin, amphetamin).
Sự tái hấp thu thụ động qua ống thận
Những thuốc đã được lọc có thể tái hấp thu thụ động ở ống thận, đặc biệt ở những vùng xa của đơn vị thận. Cơ chế sử dụng ở đây là những cơ chế điều khiển trao đổi qua các màng sinh học. Nước tiểu lọc qua cầu thận và bài tiết qua ống thận gần được cô đặc do tái hấp thu nước. Hiện tượng này đóng vai trò quan trọng đối với những hoạt chất có thể ion hoá, do pH của nước tiểu dễ bị thay đổi. Vì vậy, những loại thuốc làm thay đổi pH của nước tiểu có thể là nguồn gốc của các tương tác thuốc.
Các thuốc dễ tan trong nước có trọng lượng phân tử cao không bị tái hấp thu và không gây tương tác ở khâu này. Trái lại các chất dễ tan trong mỡ có thể bị tái hấp thu. Đây là trường hợp các acid, base yếu dưới dạng không ion hoá.
Vì vậy, tăng pH của nước tiểu làm tăng tái hấp thu các base bằng cách làm giảm ion hoá. Ngược lại, giảm pH nước tiểu làm tăng tái hấp thu các acid. Cho nên, nửa đời của amphetamin tăng gấp đôi khi pH của nước tiểu chuyển từ 5 đến 8, còn độ thanh thải qua thận của quinidin bị giảm từ 1 đến 10 khi pH chuyển từ 6 đến 7,5 . Thải trừ của phenobarbital tăng khi dùng natri bicacbonat (điều trị kinh điển nhiễm độc barbituric).
copy ghi nguồn : daihocduochanoi.com
Link tại : Tương tác thuốc ảnh hưởng đến hấp thu thuốc