Định nghĩa
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là tình trạng viêm nội tâm mạc có loét sùi thường xảy ra trên bệnh nhân đã có tổn thương tim từ trước do mắc phải hoặc bẩm sinh.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là một trong các bệnh nhiễm trùng nặng nhất. Bệnh có đặc điểm là sự xâm nhập của các vi khuẩn vào van tim hay nội tâm mạc, dẫn đến hình thành các tổn thương loét sùi lớn chứa đầy vi khuẩn, không chỉ van tim mà đôi khi cả ở động mạch chủ, các túi phình mạch hoặc các mạch máu lớn khác.
Diễn biến lâm sàng
Sốt là triệu chứng phổ biến nhất của viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn. Tuy nhiên với bệnh bán cấp sốt có thể nhẹ hoặc không có. Các triệu chứng không đặc hiệu là mệt mỏi, sút cân và hội chứng giống cúm. Tiếng thổi gặp ở 90% bệnh nhân có tổn thương bên tim trái nhưng có thể liên quan đơn thuần với bất thường có trước của tim là tiền đề cho viêm nội tâm mạc nhiễm trùng. Chấm xuất huyết chảy máu dưới móng, các điểm Roth ở mắt (thứ phát sau vi huyết khối) ngày nay ít phổ biến do điều trị kháng sinh có hiệu quả nên diễn biến lâm sàng ngắn.
Trái lại viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn cấp có diễn biến lâm sàng dữ dội hơn với sốt phát triển nhanh, ớn lạnh, yếu và mệt mỏi. Những biến chứng thường bắt đầu trong những tuần lễ đầu của bệnh. Tiếng thổi có thể thấy vì kích thước lớn của các thịt sùi hoặc sự phá huỷ các lá van ( thủng, rách các lá van). Các mảnh sùi cũng dễ bong ra và gây huyết tắc.
Trong một số các trường hợp những biến chứng ở tim hay các vị trí ngoài tim làm người ta chú ý tới viêm nội tâm mạc:
– Biến chứng tim:
+ Hở hoặc hẹp van có suy tim
+ Áp xe hình nhẫn ở cơ tim với thủng động mạch chủ, vách ngăn liên thất hay thành tự do của cơ tim hoặc tổn thương hệ dẫn truyền.
+ Hở một phần van nhân tạo.
– Biến chứng huyết tắc dẫn tới nhồi máu hay nhiễm trùng di căn: Tổn thương bên trái đến não (áp xe não, viêm màng não), đến lách (áp xe lách), đến thận (áp xe thận) và các vị trí khác.
– Biến chứng thận: + Nhồi máu thận.
+ Viêm cầu thận ổ do vi huyết khối. Bệnh có thể dẫn đến hội chứng thận hư hay suy thận hoặc cả hai.
+ Viêm cầu thận lan toả (do lắng đọng các phức hợp miễn dịch) dẫn đến suy thận.
– Áp xe nhiều ổ trong trường hợp viêm nội tâm mạc cấp do tụ cầu. Mặc dù chẩn đoán có thể bị nghi ngờ dựa trên sự xuất hiện của một hay nhiều biến chứng trên, cấy máu là cần thiết để xác định chẩn đoán. Xét nghiệm máu nhiều lần, cấy máu dương tính có thể đạt tới 80 đến 95% trường hợp. Quan trọng hơn việc chẩn đoán viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là dùng dự phòng kháng sinh ở bệnh nhân có nguy cơ như bị một số thể của bệnh tim bẩm sinh hoặc van nhân tạo khi can thiệp nha khoa hoặc ngoại khoa hoặc làm các thủ thuật khác. Nếu chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời, sống 5 năm nằm trong khoảng từ 50- 90%, kết quả tốt nhất với viêm nội tâm mạc bán cấp do liên cầu, xấu nhất với viêm nội tâm mạc do tụ cầu. Điều trị gặp nhiều khó khăn khi suy tim xung huyết với phá huỷ van hoặc với nhiễm trùng lan rộng không kiểm soát được. Chỉ định phẫu thuật thay thế van được áp dụng khi xuất hiện các áp xe hình nhẫn gây thủng, rách hoặc khuyết van .
Copy ghi nguồn : daihocduochanoi.com
Link bài viết tại : Diễn biến lâm sàng của viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn.