Chuẩn đoán bệnh nhồi máu cơ tim như thế nào.

0
601
nhồi máu cơ tim

1.  Điện tâm đồ

Là một trong những thăm dò rất có giá trị giúp chẩn đoán sớm  nhồi máu cơ tim (NMCT)  cũng như định khu NMCT. Điện tâm đồ cần được làm ngay khi tiếp cận được với bệnh nhân, làm nhắc lại nhiều lần sau đó giúp chẩn đoán cũng như theo dõi điều trị. Biểu hiện điện tâm đồ có giá trị khi sự thay đổi các sóng biến thiên theo thời gian.

nhồi máu cơ tim

     Các tiêu chuẩn chẩn đoán:

Ở ít nhất 2 chuyển đạo trong số các miền chuyển đạo: DI, aVL; DII, DIII, aVF; từ V1-V6 có sự biến đổi sau:

– Xuất hiện sóng Q mới sâu ít nhất 1/3 sóng R cùng chuyển đạo, rộng ít nhất 0,04 giây đặc trưng cho vùng hoại tử cơ tim. Sóng Q bắt đầu xuất hiện sau 3 giờ NMCT (thường quan sát thấy sau 8-12 giờ), đạt cực đại sau 3 ngày và tồn tại mãi mãi.

– Biến đổi ST: đoạn ST chênh lên cong vòm đặc trưng cho vùng tổn thương có tim dưới thượng tâm mạc. Trong NMCT dưới nội tâm mạc, ST không chênh lên mà chênh xuống đặc trưng cho tổn thương cơ tim dưới nội tâm mạc. Đoạn ST biến đổi ngay từ những giờ đầu của nhồi máu, trở về bình thường khi hết giai đoạn bán cấp (7-10 ngày).

– Biến đổi sóng T đặc trưng cho thiếu máu cơ tim. Lúc đầu thiếu máu cơ tim dưới nội tâm mạc làm sóng T cao, nhọn, đối xứng, cùng với đoạn ST chênh lên tạo ra sóng vành Pardee hay hình yên ngựa. Sau đó sóng T thấp dần và trở nên âm, nhọn, đối xứng khi thiếu máu cơ tim dưới thượng tâm mạc. Sóng T biến đổi hình dạng ngay trong những giờ đầu của NMCT, trở về bình thường sau hàng tháng, hàng năm.

Cũng có thể điện tâm đồ không có những biến đổi đặc trưng của sóng Q, đoạn ST và sóng T mà là sự mới xuất hiện block nhánh trái hoàn toàn trong bệnh cảnh lâm sàng nói trên.

Trong NMCT thất phải, có thể không thấy hững biến đổi ở các chuyển đạo thông thường, khi đó cần làm thêm chuyển đạo V3R-V6R.

Chẩn đoán định khu NMCT:

  • Thành dưới: DII, DIII, aVF.
  • Thành bên: DI, aVL.
  • Trước vách: V1-V3.
  • Trước rộng: V1– V6.Mỏm tim: V3, V4
  • Trước mỏm: V4-V6
  • Trước bên: V5,V6
  • Thất phải: V3R-V6

2. Men tim

         – Men Myoglobin: Đặc trưng cho cơ tim, và tăng ngay sau NMCT nhưng đạt đỉnh không cao và trở về bình thường trong vòng 3 giờ nên không được ứng dụng trên lâm sàng.

 Creatin kinase (CK): có 3 iso enzyme của nhóm này là CK-MB đại diện cho cơ tim, CK-MM đại diện cho cơ vân, CK-BB đại diện cho não. Bình thường CK-MB chiếm < 5% lượng CK toàn phần (bình thường CK toàn phần trong huyết thanh từ 24 – 190 U/l ở 37oC và CK-MB < 24 U/l). CK-MB bắt đầu tăng từ 3-12 giờ sau nhồi máu, đỉnh cao ở khoảng 24 giờ và trở về bình thường sau 48-72 giờ. Tăng có ý nghĩa khi > 48 U/l). Lưu ý: CK-MB có thể tăng trong một số trường hợp khác như­ viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim, sau mổ tim, sau sốc điện, tăng ít hơn  trong một số bệnh khác nh­ư chấn th­ương sọ não, rhabdomyolysis, bệnh viêm cơ, suy thận mạn,…

– Troponin: bao gồm Troponin I và T, là hai loại men khá đặc hiệu cho cơ tim, giúp chẩn đoán và tiên lượng bệnh. Men này bắt đầu tăng từ 3-12 giờ sau NMCT, đạt đỉnh ở 24-48 giờ, kéo dài 5-14 ngày.

         –  Lactate dehydrogenase (LDH): có 5 iso enzyme từ LDH1-5. LDH tăng từ 8-12 giờ, đạt đỉnh ở 24-48 giờ, kéo dài 10-14 ngày. Tỷ lệ LDH1/LDH2 >1 có giá trị trong chẩn đoán NMCT cấp.

         – Các Transaminase AST và ALT: ít đặc hiệu cho cơ tim. Tuy nhiên ở điều kiện các xét nghiệm khác không thực hiện được, bệnh nhân cơ bệnh cảnh lâm sàng của NMCT, không mắc bệnh về gan thì các men này vẫn có giá trị nhất định. Trong NMCT cấp AST tăng nhiều hơn ALT.

.3. Siêu âm-Doppler tim

Siêu âm-Doppler tim trong NMCT cấp là một thăm dò rất quan trọng, giúp chẩn đoán và tiên lượng, đặc biệt trong những thể NMCT không Q hoặc có block nhánh. Hình ảnh siêu âm tim là rối loạn vận động vùng liên quan đến vị trí nhồi máu. Siêu âm-Doppler tim còn giúp đánh giá chức năng thất trái, các biến chứng cơ học của NMCT như thủng vách tim, hở van tim do đứt các dây chằng, cột cơ, tràn dịch màng tim, huyết khối trong buồng tim,…

.4. Chụp động mạch vành qua da

Hiện nay chụp động mạch vành qua da được coi là tiêu chuẩn vàng trong việc xác định động mạch vành thủ phạm. Đồng thời thủ thuật này còn giúp quá trình can thiệp: nong và đặt stent tại những vị trí tắc hoàn toàn hoặc hẹp lòng mạch từ 70% trở lên.

5. Thăm dò phóng xạ tưới máu cơ tim

Thường không cần dùng trong giai đoạn NMCT cấp. Thăm dò này có ích ở giai đoạn sau để đánh giá khả năng sống sót của cơ tim giúp cho việc chỉ định các biện pháp can thiệp mạch vành.

Coppy ghi nguồn : daihocduochanoi.com