Nghiên cứu đại thể bệnh thấp tim mãn.

0
384
bệnh tim mạn tính

Thấp tim mạn là bệnh của tim đơn thuần. Mặc dù thấp tim mạn trên thực tế tổn thương có thể gặp ở mọi lớp áo của tim: nội tâm mạc, cơ tim, ngoại tâm mạc nhưng về căn bản là những bệnh lý viêm van mạn tính. Hiện tượng xơ hóa làm cho các lá van thô, dày, dính, cuộn mép và mất đi sự mềm mại, dẫn đến các bệnh lý hẹp, hở các van tim( bệnh lý các van tim).

 Đại thể:

1.Van hai lá:

van hai lá là van hay bị tổn thương nhất, hoặc đơn thuần, hoặc phối hợpvới các lá van khác.

– Hẹp hai lá:Van hai lá dày, xơ cứng. Bờ van tròn, cuộn mép ít nhiều. Mặt trên van, có thể lờ mờ thấy những hạt nhỏ đã xơ hóa nhưng cũng có thể thấy những hạt mới xuất hiện trong đợt cấp kế tiếp nhau. Mép van dày, không rời nhau mà gắn với nhau theo chiều dài không nhất định, nên làm cho lỗ van hẹp lại. Các dây chằng van to hơn , màu trắng xám và xơ cứng. Các cột cơ chưa to và chưa có tổn thương rõ rệt nên còn cho phép các lá van đóng lại đầy đủ, chưa sinh ra hở van.

hẹp van 2 lá

– Hẹp và hở hai lá: Các lá van đã biến dạng hoàn toàn, gắn chặt vào nhau, dầy và rất cứng, giống như sụn và nhẵn bóng như xà cừ. Bờ van cuộn mép, xù xì không đều nhau, do đó lỗ van không thể đóng kín được. Các dây chằng van, cột cơ đều bị xơ hóa, to, cứng và co rúm lại, gắn với nhau thành khối, di động khó nên làm cho lỗ van thêm hở. Bờ lồi lên của van có thể bị loét, vôi hóa, hoặc sinh ra những huyết khối rất nguy hiểm, tạo điều kiện cho vi trùng phát triển. Hẹp hở hai lá thường gặp hơn hẹp đơn thuần.

– Các tổn thương đi kèm:

Hẹp hai lá đơn thuần gây dày và giãn rộng thất trái

Hẹp và hở hai lá, do máu phun ngược trở lại ở thì tâm thu, nên trên nội mạc của nhĩ trái thường thấy những mảng xơ lồi trên bề mặt, do tác động cơ học, màu trắng vàng, mặt khi nhẵn, khi ráp và có thể là nơi sinh ra những huyết khối. Nhĩ trái, tĩnh mạch phổi bao giờ cũng giãn rộng. Phổi xung huyết tĩnh, động mạch phổi giãn rộng, đôi khi gặp huyết khối và nhồi máu phổi.

Ở những giai đoạn cuối, thất phải, nhĩ phải và lỗ van ba lá giãn rộng, dày hơn bình thường do suy tim phải. Gan, lách, thận và nhiều cơ quan khác bị xung huyết tĩnh do ứ trệ máu trở về tim.

2. Van động mạch chủ:

Trong thấp tim, ít khi van động mạch chủ bị tổn thương đơn thuần mà không kết hợp tổn thương van hai lá. Khi nhẹ thì các van dày vừa và xơ cứng nhẹ. Khi nặng thì các lá van rất dầy, cứng, bờ cuộn, lô mô những hạt xơ to nhỏ không đều, do đó thường gây hở hơn là hẹp. Mép các lá van rất hiếm khi gắn khít lại với nhau gây ra hẹp lớn như van ba lá. Bề mặt van cũng có thể có những viêm loét, sinh ra huyết khối nhỏ hoặc vôi hóa nhưng rất ít gặp.

3.Van ba lá:

Van ba lá không có tổn thương riêng lẻ mà thường đi kèm theo những tổn thương của van hai lá hoặc van hai lá và van động mạch chủ. Tổn thương thường nhỏ, chỉ làm dày các lá van, có thể làm cứng, xơ ít nhiều; bờ van có thể hơi cuộn lại. Trên bờ tự do của lá van cũng có thể thấy những hạt viêm nhỏ như trên van hai lá. Mép các lá van không dính chặt nhau nên thường chỉ có hở van ba lá.

4.Van động mạch phổi:

Giống như van ba lá, van động mạch phổi cũng chỉ có những tổn thương đi kèm van hai lá hoặc hai lá và động mạch chủ. Tổn thương cũng chỉ nhẹ như van ba lá, hiếm gặp hơn và cũng chỉ gây hở, không có hẹp.

copy ghi nguồn : daihocduochanoi.com

Link bài viết tại : Nghiên cứu đại thể bệnh thấp tim mạn