Nhu cầu vitamin cho phụ nữ mang thai và cho con bú
*Vitamin A
Nhu cầu vitamin A ở phụ nữ có thai là 800mcg/ngày, ở phụ nữ cho con bú là 1300mcg/ngày.
Không được dùng vitamin A liều cao trên 15000 UI hàng ngày ( đôi khi dùng để điều trị trứng cá) có liên quan đến dị dạng thai nhi và không nên dùng khi mang thai.
*Vitamin D
Ở phụ nữ có thai là 10 microgam/ngày ( 400UI/ngày), nhu cầu này gấp đôi so với lúc không mang thai.Nhu cầu đó đảm bảo cho vitamin D đi qua rau thai tham gia vào quá trình chuyển hóa xây dựng xương cho thai nhi.
Vitamin D là loại tan trong chất béo và được thấy có trong sản phẩm sữa ở nhiều quốc gia
Chuyển hóa vitamin D cần thực hiện dưới tia cực tím (ánh nắng mặt trời).
*Vitamin B1 ( Thiamin)
Là loại vitamin B1 tổng hợp tan trong nước liên quan tới việc giải phóng năng lượng khỏi tế bào.
Vitamin B có trong sữa và hạt thô.
Nhu cầu hàng ngày là 1,1mg. Trong thời gian mang thai và cho bú, nhu cầu tăng lên 1,5 mg/ngày
*Vitamin B2 (Riboflavin)
Là loại vitamin B tổng hợp hòa tan trong nước, cũng liên quan tới việc giải phóng năng lượng từ tế bào.
Nguồn B2 bao gồm rau xanh, sữa, trứng, phomat, và cá.
Nhu cầu hàng ngày cần 1.3mg.
Nhu cầu trong giai đoạn mang thai tăng tới 1,6mg/ngày, và giai đoạn cho bú bú lên tới 1,8mg/ngày.
*Vitamin C
Nhu cầu về vitamin C còn khác nhau giữa các nước.
Nhu cầu vitamin C ở phụ nữ có thai được đề nghị tăng thêm 10mg/ngày, ở phụ nữ cho con bú nên được tăng thêm 30mg/ngày ( theo WHO).
Vitamin C tan trong nước và có nhiều chức năng bao gồm giảm các gốc tự do việc hình thành procollagen.
Vitamin có trong hoa quả và rau xanh.
Thiếu vitamin C mạn tính sẽ ảnh hưởng tới quá trình tổng hợp collagen và dẫn tới bệnh scorbut.
Nhu cầu vitamin C hàng ngày là 60mg.
Thời kỳ thai nghén cần 70mg/ngày và tăng tới 95mg/ngày trong giai đoạn cho con bú.
*Float
Là vitamin B tổng hợp hòa tan trong nước, đóng vai trò quan trọng trong việc tổng hợp AND và nhân tế bào.
Có trong các loại hạt, đậu khô và rau có lá.
Thiếu folat trong khi mang thai có liên quan tới những dị tật bẩm sinh ống thần kinh ở thai nhi.
Những phụ nữ không mang thai cần 0,2 mg/ngày, còn phụ nữ có thai cần 0,4mg/ngày, và giảm xuống còn 0,2 mg/ngày trong giai đoạn cho bú.
Vào những năm 1998, FAD Hoa kỳ chuẩn sử dụng các loại hạt giàu floate trong thực phẩm.Làm giàu ngũ cốc đã giảm 25% tỷ lệ mắc các bệnh dị tật hở ống thần kinh (CDC, 2004) .Tuy vậy, lượng acid folic cũng không được cung cấp đủ trong khẩu phần thức ăn trung bình của người dân Mỹ và hàng ngày cần bổ sung thêm 0,4mg cho phụ nữ khỏe mạnh.
Folat cần được cung cấp 3 tháng trước khi mang thai và trong suốt thai kì thứ nhất.
Nếu thai phụ đã từng có con bị dị tật ống thần kinh, việc bổ sung folat trong lần mang thai tiếp theo là việc hết sức cần thiết và cần tăng tới 4mg/ngày.
*Ngoài các loại vitamin kể trên, việc cung cấp các loại vitamin khác cho phụ nữ có thai và đang cho con bú cần được cân nhắc theo khuyến cáo của các chuyên gia dinh dưỡng.
nguồn ghi copy : daihocduochanoi.com