Định nghĩa dược liệu
Vị thuốc chữa bệnh từ cây Sen
Dược liệu gồm nhiều bộ phận của cây sen – Nelumbo nucifera Gaernt, họ Sen – Nelumbonaceae.
Hạt Sen – Semen Nelumbinis là hạt còn màng lụa hồng bên ngoài, phơi khô, còn gọi là liên nhục.
Quả Sen – Fructus Nelumbinis là quả già phơi khô, còn gọi là liên thạch.
Tâm Sen – Embryo Nelumbinis là chồi mầm phơi khô, còn gọi là liên tâm.
Tua Sen – Stamen Nelumbinis là nhị hoa, còn gọi là liên tu.
Lá Sen – Folium Nelumbinis, Lá bánh tẻ hái vào mùa hè và mùa thu, phơi khô bỏ cuống.Than lá Sen (Hà diệp thán): Lấy lá Sen sạch, xếp đầy trong nồi nung, úp một cái nồi khác lên miệng, lấy đất sét trát kín vào chỗ tiếp giáp 2 nồi, trên để một vật nặng đè lên. Ðun vừa lửa cho đến khi tờ giấy trắng dán trên đáy nồi có màu vàng thì thôi, sau khi nguội lấy ra dùng (đốt tồn tính)
Ngoài ra người ta còn dùng gương sen tức là đế hoa gọi là liên phòng, ngó sen là thân rễ gọi là liên ngẫu.
Lấy hạt già ở gương sen, bóc vỏ cứng bên ngoài, ngâm ngập nước, bóc lớp màng đỏ, thông lấy tâm sen, phơi hay sấy nhẹ (40 – 50oC) đến khô.
Đặc điểm thực vật
Cây được trồng ở nước ta trong các ao đầm. Thân rễ hình trụ mọc trong bùn gọi là ngó sen, dùng làm thực phẩm. Lá mọc lên khỏi mặt nước, cuống lá dài có gai nhỏ. Phiến lá hình đĩa to, đường kính 40-70 cm, có gân tỏa tròn. Hoa to, gồm rất nhiều cánh hoa màu trắng đỏ hồng, đều, lưỡng tính, nhiều nhị, bao phấn 2 ô, mở bởi kẽ nứt dọc, trung đới mọc dài ra thành một phần trụ màu trắng gọi là hạt gạo, phần này có hương thơm dùng để ướp chè. Lá noãn nhiều và rời nhau đựng trong một đế hoa loe hình nón ngược. Vòi ngắn, núm nhụy chỉ nhô lên khỏi đế hoa. Mỗi lá noãn sinh ra một quả, trong đựng một hạt, hạt không có nội nhũ. Hai lá mầm nạc dày bao bọc bởi một màng mỏng. Chồi mầm (tâm sen) mang 4 lá non gập vào trong, có diệp lục.
Thành phần hóa học
Hạt có thành phần chính là tinh bột. Hạt tinh bột hình trứng, rốn hạt hình vạch, kích thước hạt tinh bột từ 3-25 μm.
Lá có nhiều alcaloid đã được phân lập và xác định cấu trúc: nuciferin, anonain, roemerin, pronuciferin, N-nornuciferin, O-nornuciferin, N-methyl-coclaurin, 4-methyl-N-methylcoclaurin, nepherin, liriodenin, dehydroroemerin, armepavin, dehydronuciferin, dehydroanonain, N- methylisococlaurin. Nuciferin là thành phần chính. Ngoài alcaloid ra, lá sen còn có các flavonoid: quercetin, isoquercitrin, leucocyanidin, leucodelphinidin.
Tâm sen có các alkaloid sau đã được biết: liensinin, isoliensinin, methyl-corypallin, neferin, lotusin, 1(p.hydroxybenzyl) 6,7-dihydroxy-1,2,3,4-tetra-hydroisoquinolin
Gương sen có quercetin.
Tác dụng và công dụng
Hạt sen thường dùng để nấu chè ăn hoặc làm mứt. Trong y học dân tộc cổ truyền dùng hạt sen làm thuốc bổ tỳ, thuốc chữa thần kinh suy nhược, mất ngủ, di tinh, đi tiêu lỏng. Ngày dùng 30g.
Tâm sen là thuốc an thần, chữa mất ngủ. Ngày dùng 5 g. Lá sen có tác dụng như tâm sen, ngoài ra còn dùng làm thuốc cầm máu. Gương sen và tua sen cũng dùng làm thuốc cầm máu, chữa di mộng tinh.
copy ghi nguồn : daihocduochanoi.com
Link bài viết tại : Tác dụng chữa bệnh của cây sen