VẬN CHUYỂN NGƯỜI BỊ THƯƠNG

0
564
Ngộ độc Clo

Vận chuyển người bị thương

1. ĐẠI CƯƠNG.

Vận chuyển người bị thương (gọi tắt là chuyển thương) nhằm đảm bảo đưa người bị thương từ nơi bị thương về tới được cơ sở y tế và quân y có khả năng cứu chữa tốt nhất. Trên bậc thang điều trị, việc chuyển thương thực hiện theo tuyến. Khi có các điều kiện cho phép và theo các chỉ dẫn đã quy định trong các quy định chuyên môn, có thể tổ chức chuyển thương vượt tuyến về các cơ sở điều trị có khả năng xử trí thích hợp nhất, theo tính chất chuyên khoa của vết thương.
Vận chuyển người bị thương là một nội dung công tác rất quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng nạn nhân và đến kết quả điều trị.

2. NGUYÊN TẮC.

2.1. Cứu chữa liên tục:

Với các nạn nhân, nhất là đối với các nạn nhân nặng, được chuyển tới các tuyến điều trị thì tại mỗi tuyến, phải tiến hành các biện pháp khẩn cấp cần thiết, để có thể tiếp tục vận chuyển nạn nhân nặng về tới tuyến điều trị có chất lượng, mà tình trạng toàn thân của nạn nhân không bị xấu đi, đáp ứng hai yêu cầu: nhanh chóng và an toàn.
Tranh thủ vận chuyển sớm được các nạn nhân nặng đến các cơ sở điều trị thích hợp sẽ có hiệu quả tốt về mặt điều trị và tiên lượng. Trên đường vận chuyển cần tiến hành các biện pháp bảo đảm an toàn và săn sóc chu đáo. Các cán bộ y tế, làm công tác hộ tống, các nhân viên làm công tác chuyển thương, phải ứng dụng các biện pháp cấp cứu và bảo vệ sinh mạng của nạn nhân trên đường vận chuyển.

2.2. Công tác chuyển thương phải kết hợp chặt chẽ với công tác chọn lọc, phân loại nạn nhân:

Phải ưu tiên vận chuyển các nạn nhân có chảy máu trong, có garô ở các chi, vết thương thấu bụng, tràn khí màng phổi mở hoặc kiểu van, vết thương vùng đầu, cổ, có rối loạn hô hấp, sốc nặng, vết thương bị nhiễm chất độc hóa học, chất phóng xạ.
Không vận chuyển các nạn nhân đang hấp hối, các nạn nhân này phải được cấp cứu và xử trí cho ổn định rồi mới chuyển về tuyến sau. Phải lựa chọn những phương tiện chuyển thương thích hợp với tình trạng bệnh lý các tổn thương. Với các nạn nhân nhẹ có thể khỏi được sau cứu chữa trong một thời gian ngắn thì đưa về các trạm xá địa phương, các đơn vị quân y hoặc điều trị ngoại trừ.

3. CHUYỂN NGƯỜI BỊ THƯƠNG BẰNG TAY KHÔNG.

Được tiến hành ở ngoài trận địa hoặc ở nơi xảy ra tai nạn để đưa người bị thương ra ngoài khu vực nguy hiểm đến một nơi tương đối an toàn trong khi chờ đợi chuyển về phía sau.
Vận chuyển người bị thương bằng tay không thường do một người làm, vì vậy thường không thể chuyển được đi xa.

3.1. Đặt người bị thương lên đùi và lê nghiêng

+ Đặt người bị thương nằm nghiêng về bên không bị thương
+ Y tá nằm nghiêng sau lưng người bị thương, mắt nhìn về cùng một hướng vói người bị thương, chân dưói co, chân trên duỗi thẳng.
+ Đặt người bị thương nằm trên chân co của y tá, mào châu của người bị thương đặt sát vào mặt trong đùi của y tá, tay trên của y tá ôm ngang nách người bị thương, kéo sát vào người mình.
+ Lê nghiêng lết đưa người bị thương về phía sau. Khi lê nghiêng, chân co đỡ người bị thương không cử động mà phải nhấc theo từng bước của tay dưới và đạp của chân trên để di chuyển.

3.2. Bỏ cõng người bị thương trên lưng

+ Đặt người bị thương nằm nghiêng về một bên.
+ Y tá bò tiếp cân người bị thương, áp sát lưng mình vào ngực người bị thương.
+ Cho người bị thương ôm vào cổ y tá, y tá dùng hai chân quặp vào chân người bị thương.
+ Y tá chuyển từ tư thế nằm nghiêng sang nằm sấp, khi chuyển dùng tay túm vào quần ngưòi bị thương và dùng 2 chân để kéo 2 chân ngưòi bị thương lên, rồi bò theo tư thế bò thấp. Khi bò chỉ dùng một chân đạp cho ngưòi bị thương khỏi bị lắc lư hoặc lết đầu 2 bàn chân và 2 tay.

3.3. Cõng người bị thương trên lưng:

Động tác tuy đơn giản nhưng không đi được xa vì người cõng rất mỏi.

3.4. Dìu người bị thương:

Chỉ áp dụng với người bị thương nhẹ, đi được.

3.5. Vác người bị thương trên vai.

Có thể thực hiện đối với người bị thương nhẹ, không tự đi được.

3.6. Bế người bị thương.

Động tác này đơn giản nhưng cũng chỉ đi được một đoạn ngắn, vì người bế rất chóng mệt.

4. CHUYỂN NGƯỜI BỊ THƯƠNG BẰNG CÁNG.

Đây là cách vận chuyển phổ biến nhất ở hỏa tuyến cũng như ở nơi xảy ra tai nạn từ trước đến nay.
4.1. Các loại cáng:

+ Cáng bạt khiêng tay

+ Cáng tre hình thuyền

+ Cáng chõng

+ Đặt người bị thương lên cáng (dùng 2 người):
– Đặt cáng bên cạnh người bị thương, chưa lổng đòn cáng.
– 2 tải thương quỳ bên cạnh người bị thương về phía đối diện với cáng.
– Luồn tay người bị thương nhấc từ từ và đặt lên cáng.
– Buộc dây cáng.
+ Cáng người bị thương:
Mỗi tải thương có một chiếc gậy chống cao khoảng 1,40m – 1,50m, có chạc ở đầu trên để đỡ đòn cáng khi cần nghỉ hoặc đổi vai.
– Khi cáng trên đường bằng: 2 tải thương cần tránh đi đều bước để cáng khỏi lắc lư.
– Khi cáng lên đường dốc: giữ cho đòn cáng thăng bằng hoặc đầu người bị thương hơi cao hơn chân.
– Khi cáng lên dốc: phải cho đầu đi trước.
– Khi cáng xuống dốc: phải cho đầu đi sau.