Contents
CÁC THỂ LIỆT MẶT.
Do cấu tạo giải phẫu học của dây VII, ta phân biệt hai thể liệt mặt khác nhau:
– Liệt mặt thể trung ương, do tổn thương phía trên nhân của dây VII.
– Liệt mặt thể ngoại biên, do tổn thương hoặc ở ngay nhân nằm trong cầu não, hoặc ở trong đoạn cùng phía ngoài.
Về phương diện triệu chứng học, hai thể liệt kể trên có những biểu hiện và dấu hiệu khác nhau, làm ta có thể phân biệt được dễ dàng.
1. Liệt mặt trung ương.
Thường là liệt mặt không hoàn toàn. Biểu hiện rõ rệt là liệt dây mặt dưới. Điều này được giải thích là do tổn thương ở bán cầu não, thường tương đối khu trú.
– Bao giờ cũng kèm theo liệt nửa thân.
– Không có dấu hiệu Charles Bell.
– Không bao giờ tiến triển sang thể co cứng.
2. Liệt mặt ngoại biên.
– Thường là liệt hoàn toàn cả dây mặt trên lẫn mặt dưới, rõ rệt, dễ phát hiện.
– Có dấu hiệu Charles Bell.
– Có những tiến triển thành thể liệt cứng. Điều này rất đặc biệt, thường chỉ gặp trong tổn thương
dây VII. Lúc đó các dấu hiệu bên mặt liệt hoàn toàn đảo ngược lại với các dấu hiệu đã tả trên:
mắt bên liệt nhắm chặt hơn… lúc này nếu không cẩn thận ta rất dễ nhấm bên liệt với bên lành.
Cần chú ý hỏi quá trình tiến triển của bệnh: trước đó một thời gian đã bị liệt bên đối diện.
Trên đường đi của dây VII ở ngoại biên, từ nhân đến chỗ bám tận, tuỳ theo địa điểm tổn thương
mà có những triệu chứng khác nhau và chính nhờ những triệu chứng này mà đôi khi ta có thể
chẩn đoán xác định được vị trí tổn thương.
2.1. Tổn thương ở vùng nhân, ta thường thấy hội chứng Millard – Gubler liệt mặt thể ngoại
biên bên tổn thương, liệt nửa thân bên đối diện. Liệt ở đây thường có kèm theo thêm cả những
dấu hiệu tổn thƣơng các dây thần kinh bên cạnh nhƣ dây vận nhỡn ngoài, dây thính giác.
2.2. Tổn thương vùng giữa rãnh hành tuỷ cầu não và ống tai trong, liệt dây VII thƣờng
kèm theo tổn thương vùng bên dây thính giác và dây sinh ba.
2.3. Tổn thương trong xương đá. Kèm theo nghe kém hay giảm cảmgiác nếm ở 2/3 lƣỡi
trước.
2.4. Tổn thương sau lỗ ức chũm. Thường liệt hoàn toàn. Nhưng cũng có thể do tổn thương
một trong những nhánh tận của dây thần kinh mà chỉ liệt dây mặt trên hoặc dây mặt dưới.
3. Liệt mặt cả hai bên.
Rất ít gặp. Phải là tổn thương cả hai bên nào hoặc do viêm nhiều dây thần kinh, hoặc là một
trong số hội chứng đặc biệt có tính cách gia đình hay tiên thiên.
Triệu chứng khó phát hiện: vẻ mặt đờ đẫn, không linh hoạt, không có sức sống. Nhai, nuốt, nói
khó khăn.
NGUYÊN NHÂN CỦA LIỆT MẶT.
1. Liệt trung ương.
Tất cả mọi tổn thương ở một bên bán cầu não đều có thể gây liệt mặt.
– Nhũn não.
– Chảy máu não.
– Khối u não…
Do vậy, đặc biệt đối với những người lớn tuổi, khi xuất hiện liệt nửa mặt, cần chu ý phát hiện
thêm liệt nửa thân, nhất là cố gắng tìm dấu Babinski.
Cũng cần nhớ kỹ là trong hội chứng Millad –Gubler, tuy liệt mặt thễ ngoại biên, nhưng vẫn kèm
theo liệt nửa thân và dấu hiệu Babinski bên đối diện của liệt mặt.
2. Liệt ngoại biên.
Đi từ nhân ra đến chỗ tận cùng của dây thần kinh đã có những nguyên nhân như sau:
– viêm màng não dày dính, làm tổn thương đoạn thần kinh từ rãnh hành tuỷ- cầu não đến ống tai
trong.
– Các nguyên nhân ở tai: viêm tai giữa cấp hoặc mạn. Cần hỏi tiền sử chãy mủ tai hoặc gửi
khám chuyên khoa Tai mũi họng.
– Chấn thương vùng đá. Ở người lớn do vỡ xương đá. Ở trẻ sơ sinh do can thiệp sản khoa như
focxep hoặc do khung chậu người mẹ hẹp.
– Một số nguyên nhân khác ít gặp hơn, như giang mai, viêm nhiều dây thần kinh, bệnh bại liệt
trẻ em, Zona vùng nhân gối, uốn ván mặt ở Rose (thực ra đây không phải là liệt mặt mà do co
cứng nửa mặt làm cho mắt mất cân đối).
– Cuối cùng cần đặc biệt chú ý đến những trường hợp liệt nửa mặt xảy ra đột ngột, không có
nguyên nhân rõ ràng mà người ta thường gọi là liệt “do lạnh” . loại liệt này thường rất hay gặp
trên lâm sàng, đặc biệt của bệnh là xảy ra đột ngột. Đêm đi ngũ vẫn bình thường. Sáng hôm sau
dậy soi gương hoặc người xung quanh thấy liệt nửa mặt rõ rệt. Cũng có thể khi đang ăn thấy
cơm rơi ra miệng bên bị liệt.
Đồng thời với liệt, một đôi khi người bệnh có cảm giác đau ở vùng sau xương chũm. Sau hai ba
tuần, rối loạn về vận động giảm dần rồi rời khỏi hẳn, không để lại di chứng.
Cá biệt, có trường hợp bệnh nặng gây teo cơ và có phản ứng thoái hoá diện hoàn toàn bên
nửa mặt bị liệt. Tiến triển thường kéo dài, để lại di chứng lệch vĩnh viễn và thường bao giờ cũng
tiến triển sang thể liệt cứng đã tả ở trên.
Hiện nay người ta giải thích hiện tượng liệt mặt do lạnh như sau: vì dây VII trong đoạn ngoại
biên phải đi qua một vùng ống xương dài và ngoằn ngoèo, như vậy rất có thể do một khối u, vì
viêm nhiễm nhất thời một đoạn nào của ống xương cũng gây chèn ép vào dây thần kinh làm liệt
nửa mặt. Đây cũng chỉ là một giả thiết chưa được chứng minh cụ thể