Thăm dò hình thái đường tiêu hóa bằng siêu âm qua thành bụng

0
960
siêu âm qua thành bụng

 Siêu âm qua thành bụng (Ultrasound – US)

siêu âm qua thành bụng

Trước đây siêu âm được dùng cho chẩn đoán bệnh lý gan, mật, tụy, lách, thận và rất hạn chế để khảo sát tạng rỗng như ống tiêu hóa vì chứa đầy hơi. Hơn 10 năm trở lại đây, với sự ra đời của thế hệ máy có độ ly giải cao và loại đầu dò nội tạng với tần số cao thì vấn đề khám nghiệm siêu âm càng được áp dụng rộng rãi trong lâm sàng để khảo sát ống tiêu hóa.
Cho bệnh nhân nhịn ăn trước khi siêu âm để dạ dày trống và giảm hơi trong ống tiêu hóa, có thể cho thêm thuốc hấp thu hơi hay bơm nước vào đại tràng để dễ khảo sát thành ruột. Đầu dò thường dùng có tần số từ 7,5 – 10MHZ.
Trên hình ảnh siêu âm của ống tiêu hóa, có sự tương ứng với hình ảnh cấu trúc lớp của thành ống, bao gồm 5 lớp: đường mảnh tăng hồi âm (mặt phân cách giữa dịch, hơi trong lòng với lớp niêm mạc); lớp giảm hồi âm dày không quá 1 mm (niêm mạc và cơ niêm); lớp tăng hồi âm dày không quá 1 mm (dưới niêm mạc); lớp giảm hồi âm tiếp theo dày hơn các lớp khác nhưng không quá 2mm (lớp cơ) và lớp ngoài cùng tăng hồi âm (thanh mạc và mô kế cận).

1. Khảo sát thực quản

Ờ thực quản đoạn cổ, dùng đầu dò thẳng với mặt cắt ngang dọc trục thực quản kết hợp với động tác nuốt của bệnh nhân để đánh giá nhu động thực quản. Thực quản đoạn tâm vị thì dùng đầu dò cong hoặc rẻ quạt giúp đánh giá hiện tượng trào ngược dạ dày thực quán. Riêng thực quản đoạn giữa thì khó khảo sát hơn do hơi ở phổi.
– Thường thì thành thực quản dày không quá 3mm.
– Phạm vi chẩn đoán: Trào ngược tâm vị thực quản, trướng tĩnh mạch thực quản, vicm thực quản, ung thư thực quản.

2. Khảo sát dạ dày- tá tràng

Để đánh giá khả năng làm rỗng dạ dày sau 12 giờ nhịn ăn và uống, sau đó cho uống khoảng 200 – 300ml nước để khảo sát các vị trí khác nhau của dạ dày về nhu động, độ dày vách, tình trạng đóng mở lỗ môn vị… Với hành tá tràng, đánh giá nhu động, thành và các van đồng qui, khẩu kính tá tràng nhất là khi tá tràng đầy dịch.
– Bình thường bề dày thành dạ dày không quá 5mm, hành tá tràng không quá 3mm.
– Phạm vi chẩn đoán: Hẹp phì đại môn vị ở trẻ sơ sinh, bệnh lý dạ dày tá tràng như ứ trệ dạ dày, dị vật dạ dày, viêm dạ dày (hình ảnh cấu trúc lớp bình thường, dày vách đồng tâm), loét dạ dày, loét tá tràng (dày thành, giảm hồi âm, ổ đọng hơi ở đáy ồ loét) ung thư dạ dày (dày vách không đều, ổ đọng hơi, mất cấu trúc lóp), thủng dạ dày (hơi và dịch tự do ừong ồ bụng., dấu hiệu “ bức rèm cửa”), teo chít hẹp tá tràng.

3. Khảo sát ruột

Dùng đầu dò thẳng, tần số cao, và phải ép đầu dò để tạo cửa sổ xuyên âm thuận lợi ghi hình rõ nét hơn, khảo sát tính chất đè xẹp của đoạn ruột nhất là khi khảo sát ruột thừa. Với trực tràng, đầu dò đặt qua ngả bụng hoặc qua tầng sinh môn. Khẩu kính của ruột non bình thường không quá 3cm, bề dày vách không quá 3mm và chuyển động một chiều, khẩu kính đại tràng không quá 5cm, bề dày vách không quá 5mm.
– Khẩu kính ruột thừa không quá 6mm và bề dày vách không quá 3 mm, khẩu kính thay đồi và thu nhỏ khi đè ép.
– Phạm vi chẩn đoán: Viêm ruột (dày vách đồng tâm, giảm hồi âm, tăng nhu động), tắc ruột (tăng khẩu kính, vách dày giảm hồi âm, chuyển động tới lui, cuộn xoáy), lồng ruột (nhiều vòng đồng tâm trên mặt cắt ngang, hình nĩa trên mặt cắt dọc, vách dày và độ hồi âm rất giảm), thiếu máu ruột (dày vách ruột cân xứng, thành ruột mất trương lực không có nhu động, dịch ồ bụng), viêm ruột thừa và biến chứng của nó (đường kính > 6mm, vách dày > 3mm đồng đều, cấu trúc lớp đầy đủ nhưng ranh giới giữa các lớp mờ nhạt, để có thể xẹp, chứa dịch xuất tiết), viêm đại tràng, bệnh lý túi thừa, u ác tính đại tràng (dày vách ruột không đều, mất cấu trúc lớp, khối tăng âm, đường khúc khuỷu ở trung tâm có độ hồi âm rất cao).

4. Khảo sát mạc nối và mạc treo ruột

Bằng các mặt cắt vùng thượng vị và hạ sườn với hình ảnh cấu trúc ống mạch được bao quanh bởi các cấu trúc tăng hồi âm của mạc nối và mạc treo.

Copy ghi nguồn : daihocduochanoi.com

Link bài viết tại : Thăm dò hình thái đường tiêu hóa bằng siêu âm qua thành bụng