Trong chuyển dạ thai chịu những yếu tố ảnh hưởng khác nhau như cơn co tử cung, động lực cơ học tác động lên thai và dây rốn và thay đổi chuyển hóa của mẹ.
1 Cơn co tử cung
-Lưu lượng trong động mạch tử cung giảm 30% khi cơn co tử cung đạt cực điểm, khi đó áp lực trong buồng ối vượt áp lực của hồ huyết ( 30mmHg) tuần hoàn gián đoạn trong khoảng 15-60 giây bởi sự chèn ép tĩnh mạch trở về.Tuy nhiên máu ở hồ huyết có dự trữ oxy để tạm thời cho thai và PO2 giữ ổn định ở 40mmHg.
-Khi sổ thai, tần số và cường độ cơn co tử cung tăng phối hợp với cơn co thành bụng- lúc này áp lực buồng ối đạt đến 100-120mmHg, tuần hoàn động mạch tử cung, hồ huyết bị gián đoạn dẫn đến sự hạ thấp PO2 và tăng PCO2.
-Đối với thai bình thường, cơn co tử cung bình thường trong chuyển dạ không ảnh hưởng đến thai bình thường.
Cơn co tử cung quá dày hoặc quá dài có thể đe dọa một thai bình thường.
-Nếu rau suy hoặc kém tưới máu, dẫn đến trao đổi oxy giảm, thai có thể suy mặc dù cơn co tử cung bình thường.
-Thai yếu, thai kém phát triển, do dự trữ glycoza giảm nên thai chịu đựng kém với cơn co tử cung.
Do vậy, sự bình thường của chuyển dạ phụ thuộc vào cơn co tử cung, thai, rau.
2 Lực cơ học
Nếu còn màng ối, áp lực thành tử cung không ảnh hưởng trực tiếp đến thai và dây rốn.Sau khi ối vỡ, áp lực chèn ép vào đầu thai có thể tăng 2-3 lần, dây rốn có thể bị ép giữa tử cung và thai nhi.
3 Ảnh hưởng của mẹ đến thai nhi
-Những cơn co tử cung dày và mạnh có thể dẫn đến tình trạng nhiễm toan (acid lactic) do chuyển hóa glucose theo con đường kị khí ở thai nhi.
-Tăng thông khí phổi do mẹ thở nhanh và gắng sức trong khi đẻ gây ra tình trạng nhiễm kiềm hô hấp, PCO2 hạ gây ra tình trạng giảm lưu lượng máu tử cung rau.
-Trong khi sổ thai những cố gắng rặn với thanh môn mẹ đóng lại, tăng PCO2 và đưa đến tình trạng nhiễm toan ở mẹ, từ đó ảnh hưởng đến thai.
-Chỉ định thở oxy cho mẹ không phải luôn có lợi, vì nhiễm kiềm và tăng oxy kéo theo sự hạ thấp dung lượng từ tử cung rau, ngược lại nó cần thiết trong trường hợp giảm oxy của người mẹ.
-Rối loạn huyết động:
+Ở tư thế nằm ngửa: Tử cung mang thai có xu hướng lệch sang phải nên gây chèn ép tĩnh mạch chủ dưới và dẫn đến hạ huyết áp động mạch, giảm dung lượng máu đến rau thai, có thể làm giảm sức chịu đựng của thai trong cuộc chuyển dạ.Tư thế sản phụ nằm nghiêng trái sẽ tránh được hiện tượng này.
+Những cơn co tử cung mạnh hoặc cố gắng rặn sẽ chèn ép động mạch chủ dưới, động mạch đùi làm giảm lưu lượng trong động mạch tử cung gây suy thai.
+ Hạ huyết áp mẹ do liệt hạch:Do gây tê ngoài màng cứng có thể kéo theo tình trạng suy thai do giảm huyết áp dẫn đến tình trạng giảm thể tích máu gây giảm lưu lượng máu tới thai.
+ Đau và lo lắng trong chuyển dạ làm tăng tiết cortisol và catecholamin có tác dụng co mạch tử cung và tăng tình trạng nhiễm toan chuyển hóa.Do vậy luôn phải cho giảm đau và tránh buồn phiền.
-Một số thuốc có tác dụng ức chế trung tâm hô hấp và ức chế cơ tim cua thai (như Barbiturat, Dolargan…).
Nguồn ghi copy:daihocduochanoi.com
link tại:Những yếu tố ảnh hưởng đến thai nhi trong quá trình chuyển dạ