Bệnh xơ cứng động mạch (arteriosclerosis) là một nhóm những bệnh gây dày và mất tính đàn hồi của thành động mạch. Xơ vữa động mạch (XVĐM )là một bệnh thầm lặng và tiến triển hầu như bắt đầu từ khi sinh ra và có đặc điểm hình thành ngày càng nhiều những mảng vữa mỡ ở lớp áo trong của các động mạch chun và những động mạch cơ có kích thước trung bình và lớn.
Dịch tễ
Phổ biến: Bắc Mỹ, châu Âu, úc, New Zealand, Nga và các quốc gia phát triển
Ít hơn ở Trung và Nam Mỹ, Châu Phi, Á.
Việt Nam, thập niên 70 TK XX bệnh ở hàng thứ yếu, ngang với ung thư, đầu thập niên 90, tăng lên rõ rệt.
Dịch tễ học, xác định một loạt các yếu tố nguy cơ liên quan đến sự thịnh hành và độ nặng của XVĐM.
Tuổi: Có ảnh hưởng lớn, từ 40 đến 60, tỉ lệ NMCT tăng gấp 5 lần.Giới: Nam > nữ. Tuổi 30 – 45 , TL tử vong do NMCT nữ 1/5 so với nam. Sau mãn kinh, TL mắc tăng lên.Yếu tố di truyền:
Yếu tố gia đình có khả năng là đa gen. Yếu tố gen liên quan đến một chuỗi các yếu tố nguy cơ khác có tính chất gia đình (THA, ĐTĐ)
Đột biến ở gen thụ thể LDL, trên cánh tay ngắn của nhiễm sắc thể 19, dẫn đến tăng cholesterol gia đình (FH).
– Bệnh trên NST thường , khoảng 1/ 500 người dị hợp tử và 1/1.000.000 là đồng hợp tử.
Những trường hợp đồng hợp tử không được điều trị hầu hết chết vì bệnh động mạch vành trước tuổi 20.
– Tỷ lệ tăng cholesterol gia đình gặp ở gần 6% ở những người có nhồi máu cơ tim liên quan
với tăng lipid máu. Trong số những người dưới 60 tuổi bị nhồi máu cơ tim, 5% là dị hợp tử .
– Dị hợp tử có nồng độ LDL cao gấp 2 lần, đồng hợp tử tăng 6-10 lần bình thường.
– BN dị hợp tử cũng bị nhồi máu cơ tim từ sớm nhưng ở độ tuổi muộn hơn (40 đến 45 tuổi ở nam giới).
– Hơn 400 alen đột biến cho tăng cholesterol gia đình được biết đến, trong đó có đột biến điểm, chèn và xóa bỏ. Những đột biến này rơi vào năm loại chính, dựa trên tác dụng của chúng trên chức năng protein thụ thể
– Ngoài việc tích lũy nhanh cholesterol trong động mạch (xơ vữa động mạch sớm), LDL cholesterol cũng tích lỹ ở da và gân để tạo thành xanthoma (u hạt vàng)
– Trong một số trường hợp (trước 10 tuổi trong đồng hợp tử), cũng có tích tụ chất béo trong giác mạc
Một số nguyên nhân
Tăng lipid máu: LDL Là yếu tố nguy cơ chính.
Tăng huyết áp: 45-62 người có HA > 169/95 mmHg nguy cơ gấp 5 lần mắc TMCT người có HA 140/90 mmHg.
Hút thuốc lá: Hút 1 hay nhiều hơn 1 bao/ngàytrong vài năm, TLTV do TMCT tăng 200%.
Đái tháo đường: gây tăng cholesterol máu và làm tăng đáng kể khả năng bị XVĐM. Tỉ lệ mắc phải của NMCT tăng cao gấp 2 lần
Tăng nồng độ homocysteine huyết thanh: là a.a chứa sulfur. Methionine được khử nhóm methyl => homocysteine+adenosine.
Bth 5-15 µmol/l, khi > 100µmol/l =>bệnh lý mạch máu sớm (vành, ngoại vi, đột quỵ hoặc
viêm tắc nghẽn TM). Gây mất chức năng của tbnội mạc do tạo ra các chất oxy hoá, ngăn cản quá trình giãn mạch và chức năng chống đông của oxit nitơ. Chế độ ăn nghèo folate và Vit D cónguy cơ tăng homocysteine máu.
Các yếu tố ảnh hưởng đến cầm máu và tắc mạch: Yếu tố lq chính đến sự tiêu fibrin: tăng chấtức chế yếu tố hoạt hoá plasminogen-1 (PAL- 1) và quá trình viêm: fibrinogen huyết thanh và protein C phản ứng (CRP).
Lipoprotein Lp(a): ảnh hưởng tiềm tàng tới quá trình XVĐM: sự tích tụ lipid, thay đổỉ TB nội mạc, tăng sinh TB cơ trơn, và kiểm soát quá trình tân tạo mạch máu của mảng xơ vữa.
Các yếu tố khác: ít TDTT, lối sống cạnh tranh, căng thẳng và tăng cân không kiểm soát …
=>Đa yếu tố nguy cơ tạo ra những tác động cộng hưởng.
+ 2 yếu tố nguy cơ, khả năng mắc gấp 4 lần.
+ 3 yếu tố nguy cơ (tăng Lipid,HA, hút thuốc lá) => tỉ lệ NMCT gấp 7 lần.
Coppy ghi nguồn : daihocduochanoi.com
Link bài viết tại : https://daihocduochanoi.com/nhung-yeu-to-nguy-co-gay-xo-vua-dong-mach/